Katori Shinto Ryu Sword Fighting một trong những môn phái kiếm đạo cổ nhất Nhật Bản. Traditional sword school, official representative of Shinbukan Dojo, Japan.

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

NOBUTOSHI OTAKE sensei – Đôi điều về thầy Nobutoshi Otake

Nobutoshi sensei is the oldest son of Risuke Otake sensei. Nobutoshi sensei is the current head master of Shinbukan Dojo, Japan. Every year, sensei is usually invited to visit and train for many Katori dojo all around the world. Organizing a seminar with Nobutoshi sensei is always a great honor to the host. This event is not only special to the local dojo but also to the neighbor countries in the area.
Apart from a martial art master, as his father, Nobutoshi sensei is a traditional cutural bridge between the past and now – the guardians of “culture treasure of Japan” – Katori Shinto-ryu. Besides, Nobutoshi sensei is known as an expert about katana – collect, evaluate and reserve “national treasure” katana of Japan.
In March 2013, from 20 to 24, Nobutoshi sensei will visit and have a seminar for Katori Shinto-ryu Việt Nam in Ho Chi Minh City. This will be a memorable milestone not only of martial art but also of 2 cultures Vietnam and Japan.
Otake Nobutoshi sensei
Otake Nobutoshi sensei
Thầy Nobutoshi Otake là con trai trưởng của thầy Risuke Otake. Hiện thầy Nobutoshi là thầy trưởng của Shinbukan Dojo tại Nhật Bản. Hàng năm, thầy Nobutoshi vẫn thường được mời tập huấn cho rất nhiều võ đường trên thế giới. Việc được tổ chức một chuyến hội thảo, tập huấn cùng thầy Nobutoshi luôn là một vinh dự rất lớn của nước tổ chức. Đây này không chỉ là một sự kiện đặc biệt đối của các võ sinh nước chủ nhà mà còn là của cả khu vực.
Không chỉ là một võ sư, cũng như cha mình, thầy Nobutoshi là cầu nối giữa những nét văn hóa truyền thống và thế giới hiện đại, những người bảo tồn “Di sản văn hóa phi vật thể” của nước Nhật – môn phái Katori Shinto-ryu. Bên cạnh đó, Nobutoshi sensei còn được biết đến như một chuyên gia về kiếm Nhật (katana) – sưu tầm, kiểm định và bảo tồn các thanh katana “báu vật quốc gia” của Nhật Bản.
Tháng 3 năm 2013, từ ngày 20 đến 24, thầy Nobutoshi sẽ sang thăm và tập huấn cho võ đường Katori Shinto-ryu Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một cột mốc lịch sử đáng nhớ không chỉ của võ thuật mà còn là của hai nền văn hóa Việt – Nhật.

Chủ Nhật, 27 tháng 1, 2013

Why we train kata? – Vì sao chúng ta phải tập Kata

In the words of Otake Risuke sensei: “The same kata is practiced thousands of times over many years and decades, so that one can perform the movements automatically – even to the extent that one can complete the kata corectly while thinking about tomorrow work. Through attaining this state, the body is able to move unconsciously when facing an opponent in actual combat” (Katori Shinto ryu: Warrior Tradition by Risuke Otake – 2007)
***
Theo lời của Otake Risuke: Việc huấn luyện trong Katori Shinto –ryu bắt đầu với tachijutsu (kiếm thuật). Nó được tiến hành mà không hề đề cập đến việc rằng huấn luyện chỉ tập trung vào kata (Một loạt tình huống chiến đấu giả định được ghép thành 1 bài để truyền đạt những nguyên lý và kỹ thuật của môn phái). Kata được luyện tập trong Shinto-ryu đã không còn được tìm thấy ở trong những môn võ khác.
Con người có 2 loại phản xạ đó chính là phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện. Phản xạ có điều kiện là phản xạ thông qua dữ liệu từ mắt, qua não, não truyền lệnh xuống tay chân, cơ thể và loại phản xạ có điều kiện này thường không theo kịp tình huống và trở nên không hiệu quả trong 1 trận chiến mà sống và chết chỉ cách nhau trong tích tắc. Phản xạ không điều kiện là những phản xạ đã được ghi nhớ vào cơ thể, và cơ thể phản ứng một cách tự nhiên, không qua các giai đoạn suy nghĩ, cũng như đôi mắt ta tự đóng lại khi có một vật nguy hiểm bay hướng vào mắt. Những phản xạ này sẽ diễn ra nhanh, đúng thời điểm và hoàn toàn tự nhiên. Đó chính là mục đích những bài Kata của Katori Shinto Ryu hướng tới.
Kendo Katori Kiếm thuật Kenjutsu Việt Nam
Katori Shinto-ryu kata
Những bài Kata được tập đi tập lại hàng ngàn lần qua nhiều năm và nhiều thập kỉ, vì thế một người có thể thực hiện những bước di chuyển theo phản ứng tự nhiên của cơ cơ thể – thậm chí đến mức người đó có thể hoàn thành kata một cách hoàn toàn chính xác khi trong đầu lại đang nghĩ đến việc của ngày mai. Với cách ghi nhớ kỹ thuật này, cơ thể con người có thể ra đòn theo phản xạ tự nhiên khi đối mặt với đối thủ trong các cuộc chiến thực tế.
Khi luyện tập kata, Shinto-ryu không gây ảnh hưởng làm thay đổi hình thể tự nhiên của người luyện tập, như là tay hay chân. Ví dụ, một phần của việc huấn luyện yêu cầu người tập từ vị trí ngồi nhảy lên càng cao càng tốt rồi tiếp đất bằng chân. Vị trí và hình dáng tự nhiên của đôi chân con người sẽ giúp cho người tập trạng thái cân bằng tốt nhất. Đó là lí do tại sao Katori luôn nhấn mạnh việc di chuyển 1 cách tự nhiên nhất của cơ thể. Thêm 1 ví dụ khác, khi cắt hoặc tấn công, việc cánh tay ép vào phía trong được biết đến theo truyền thống như chakin-shibori (ép túi lọc trà). Tuy nhiên, việc di chuyển này không được nhấn mạnh trong Shinto-ryu. Đó là vì cơ thể con người được cấu tạo là tay luôn tự nhiên ép vào phía trong khi cắt hoặc tấn công bằng vũ khí với 1 lực mạnh. Việc tấn công hay cắt không thể dừng lại một cách hiệu quả khi tay hướng ra ngoài.
Việc sử dụng tachi phải chuyển đổi khi đối mặt với những vũ khí dài như naginata (đại đao) hoặc yari (thương). Vì thế, kỹ thuật tập luyện Shinto-ryu được thiết kế để trang bị cho võ sinh những kỹ năng trên chiến trường và họ có thể đối đầu với bất kì loại binh khí gì.
- Tùng Possible
(Nguồn Katori Shinto ryu: Warrior Tradition by Risuke Otake – 2007)

KIẾM THUẬT NHẬT BẢN KATORI SHINTO RYU

Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū (天真正伝香取神道流) là một trong những môn võ cổ nhất còn sót lại của nhật bản, và là khuôn mẫu của võ cổ truyền nhật bản.
Được sáng lập bởi tổ sư Iizasa Ienao, người sinh năm 1387 tại làng Iizasa (ngày nay thuộc Takomachi, tỉnh Chiba ),năm 1960 Katori Shinto ryu là môn võ thuật đầu tiên được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
kiếm thuật Nhật Bản Katori kendo
Chưởng Môn Risuke Otake trong tư thế Iai-goshi
Katori Shinto-ryu là một môn võ toàn diện đã tồn tại và được lưu truyền từ thời xưa. Đến nay, truyền thống truyền dạy vẫn được giữ bí mật thông qua những quy định chặt chẽ được ghi trong huyết thệ (keppan) mà các thành viên khi muốn gia nhập đều phải thực hiện. trải qua gần 600 năm tồn tại, nghi thức này đã góp phần bảo toàn chất lượng của việc luyện tập truyền thống một cách nguyên bản về cả tinh thần cũng như hình thức như khi được sáng lập bởi tổ sư Iizasa Ienao
Ban đầu Iizasa Ienao đặt tên cho môn võ của mình là Tenshinsho-den Katori Shinto-ryu (天真正伝香取神道流) tuy nhiên sau đó tên đã trải qua vài sự biến đổi bao gồm Shinryo Shinto-ryu (神慮神道流), Katori Shinto-ryu (香取新当流) và Tenshinsho-den Shinto-ryu. (天真正伝新刀流)Đến cuối năm 1940 người chấp trưởng đời thứ 19 và những môn sinh của ông đã thống nhất tên gọi của môn võ một lần nữa và cái tên Tenshinsho-den Katori Shinto-ryu (天真正伝香取神道流)chính thức được sử dụng.
kiếm thuật Nhật Bản Katorikiếm thuật Nhật Bản Katori kendo
kiếm thuật Nhật Bản Katori kendo
Không giống như các budo hiện đại chỉ tập trung vào 1 trường phái kỹ thuật nhất định, như là kendo, judo hoặc là iaido, truyền thống của Katori Shinto Ryu là việc học một cách toàn diện nhiều lĩnh vực của võ thuật. Nội dung của cách học này có thể gọi chính xác là bugei juhappan (武芸十八般) (“thập bát ban võ nghệ” – hoàn thiện việc học võ). Tuy ngày nay những môn như suiren(水練) (bơi lội), hojutsu (砲術)(bắn súng), và kyujutsu(弓術) (bắn cung) không còn tồn tại trong hệ thống môn phái, giáo trình của Katori Shinto-ryu vẫn có thể gọi là toàn diện, và thậm chí cả kiến thức về ninjutsu(忍術) (nhẫn thuật – hoạt động gián điệp) và noroshi(烽火) (lửa hiệu), vẫn được truyền dạy.
Shinto-ryu dạy môn võ thuật của kenjutsu(剣術) (kiếm thuật) bao gồm việc giảng dạy bí mật fudochi-shinmyo-ken(不動智神妙剣) và tsubame-gaeshi(ツバメ返し) (những kỹ thuật cấp cao đã trở thành huyền thoại trong hệ thống võ thuật của Nhật và không thường được ghi chép trong các tài liệu thông thường), iaijutsu(居合術) (kỹ thuật rút kiếm), bojutsu (棒術)(kỹ thuật đánh gậy), naginatajutsu (薙刀術)(kĩ thuật đại đao), sojutsu (槍術)(kỹ thuật đánh thương), jujutsu 柔術(cận chiến tay không), và shurikenjutsu (kĩ thuật phóng phi tiêu), cũng như nhiều lĩnh vực khoa học như chikujojutsu (củng cố lâu đài và trận địa), gunbaiho (軍配法)(chiến lược), tenmon chiri (天文地理)(thiên văn địa lý), và inyo kigaku (陰陽気学)(âm dương khí học – giải thích và tiên đoán bằng thuyết âm dương của Trung Quốc). Bởi chương trình giảng dạy rộng lớn của mình, Katori Shinto-ryu được xem là đỉnh cao của tông phái võ thuật Nhật Bản.
kiếm thuật Nhật Bản Katori kendo
kiếm thuật Nhật Bản Katori kendo
Trên chiến trường ngày trước, các chiến binh mặc áo giáp và chiến đấu với đại đao, thương giáo. Nếu cây thương bị gãy, họ sẽ tiếp tục dùng cán cầm như 1 cây gậy . Nếu vũ khí này bị mất đi, các chiến binh sẽ chiến đấu với tachi (太刀)(kiếm). Trừ khi kiếm họ bị gãy, lúc này họ sẽ trở lại với kumiuchi (組討)(đấu vật) và dựa vào kĩ năng trong jujutsu. những chiến binh này sống trong 1 thời đại mà chỉ dựa vào 1 kỹ năng võ thuật duy nhất sẽ không đủ để họ sống sót trong các trận chiến. Do đó, kiến thức đa dạng của Katori Shinto-ryu không nghi ngờ là 1 thành quả của sáng tạo nghệ thuật trong thời đại mà loại hình chiến đấu này còn phổ biến. việc luyện tập Katori Shinto-ryu bắt đâu với thuật kiếm (tachijutsu) và tập trung chủ yếu vào các bài kata, những bài kata của được sử dụng trong võ Katori Shinto-ryu thường dài hơn những bài được tìm thấy trong truyền thồng khác. Một kata được luyện tập hàng ngàn lần qua nhiều năm thập chí nhiều thập kỉ nhờ vậy người luyện có thể ra đòn một cách tự động, nói một cách đơn giản hơn là bạn vẫn có thể hoàn thiện đúng bài kata trong khi suy nghĩ về công việc ngày mai. Và khi đạt được trạng thái này, cơ thể của người luyện tập sẽ có thể ra đòn một cách độc lập với suy ngĩ ( vô thức) trong những trận chiến thực sự.

IAIJUTSU – KỸ THUẬT RÚT KIẾM

kiếm thuật Katori Shinto Ryu Kendo Việt Nam
Iaijutsu
Iai-justu là một kĩ thuật dùng để tiêu diệt kẻ thù, kĩ thuật này chủ yếu đòi hỏi người sử dụng kiếm trong lúc bị tấn công phải có thể rút kiếm ra khỏi vỏ chỉ trong tíc tắc, bất kể ở trong một không gian hẹp (trong nhà, phòng .. ) hay những không gian rộng, và kể cả khi đang ở tư thế đứng hay ngồi.
Một đặc điểm nổi bật trong kĩ thuật Iai-jutsu của Tenshin Shoden Katori Shinto Ryu đó là việc đòi hỏi người sử dụng kiếm phải có thể thi triển một cách nhuần nhuyễn một tư thế gọi là Iai-goshi, một tư thế mà người sự dụng kiếm ngồi ờ vị trí thấp. Vào thời chiến trong quá khứ tại Nhật Bản, những người lính thường thăm dò tình hình của quân địch vào ban đêm, và họ thường di chuyển từ những vùng có địa hình thấp đến những nơi cao hơn. Sự quan sát từ một vị trí thấp giúp họ có thể dễ dàng phát hiện ra quân địch ở những điểm cao hơn, và trong bóng tối, Iai-goshi sẽ đem lại cho họ nhiều lợi thế so với quân địch.
kiếm thuật Katori Shinto Ryu Kendo Việt Nam
Iaijutsu
Đó là những quy tắc chung làm nên việc chiến đấu trong tư thế ngồi với một đầu gối chạm đất trong Iai-jutsu của Tenshin Shoden Katori Shinto Ryu. Và điều này đặc biệt hiệu quả khi phải chiến đấu trong nhà.
Mọi môn võ thuật cổ đều được tạo ra với mục đích giúp người sử dụng có thể ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Mặc dù phần lớn trong số những bài học hiện nay đều chú trong vào kata ( những tư thế đánh mẫu) tuy nhiên điều quan trọng nhất trong việc thi triển Iai-jutsu đó là “tốc độ” , đây cũng là yếu tố đánh giá chất lượng của mọi hệ thống võ thuật cổ.
Mọi môn võ thuật cổ đều được tạo ra với mục đích giúp người sử dụng có thể ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Mặc dù phần lớn trong số những bài học hiện nay đều chú trong vào kata ( những tư thế đánh mẫu) tuy nhiên điều quan trọng nhất trong việc thi triển Iai-jutsu đó là “tốc độ” , đây cũng là yếu tố đánh giá chất lượng của mọi hệ thống võ thuật cổ.Người sử dụng kiếm phải rút kiếm với một tốc độ cực nhanh, và trong gần như cùng một khoảng khắc, chỉ một vài phần giây, thực hiện một nhát đâm thật chuẩn xác và uy lực. hành động này được gọi là nuki-uchi. Trái lại, khi thu kiếm, anh ấy hoàn toàn có thể thực hiện một cách ung dung, chậm rãi vì trận chiến đã kết thúc. Một vài “kiếm sĩ thời hiện đại” tự làm tổn thương bản thân họ trong quá trình luyện tập chỉ vì tra kiếm vào vỏ quá nhanh, đây được xem là một sự điệu bộ không nên có và nó hoàn toàn không phải là một phần thực sự của Iai-jutsu.
kiếm thuật Katori Shinto Ryu Kendo Việt Nam
Iaijutsu
Người tập kiếm xem thanh kiếm như sự kéo dài của cơ thể họ, có một bí quyết nói rằng, “đòn tấn công bằng một tay đem lại 15cm lợi thế” . Nếu người sử dụng kiếm không thể sử dụng thanh kiếm bằng một tay một cách dễ dàng từ trái sang phải, từ sau ra trước thì kĩ thuật của anh ấy sẽ bị chậm, và thanh kiếm cũng phải được chế tạo với một trọng lượng phù hợp để khi sử dụng người dùng có thể điều khiển nhanh và thoải mái như chính ngón tay của mình., bên cạnh đó cạnh sắc của thanh kiếm phải cắt với tốc độ cực nhanh – nhanh như cắt – khi chém vào cơ thể kẻ địch. Nếu không thể đạt được những yếu tố trên, rất có thể đối phương sẽ tránh được đòn đánh. Vung kiếm một cách chậm chạp không xứng đáng được gọi là võ thuật, nếu đòn đánh của người tấn công bị đối phương nhìn kịp, nó giống như việc ra hiệu cho họ rằng “ tôi sẽ đánh vào đầu bạn” hoặc tôi sẽ đánh vào trán bạn”, và những đòn đánh như vậy thì quá chậm để sử dụng trong thực chiến. nhưng điều quan trọng đối với mọi người tập kiếm trước khi sử dụng những kĩ thuật tốc độ (haya waza) đó là việc họ biết được khả năng kĩ thuật của chính họ.

OTAKE SENSEI – NGƯỜI BẢO TỒN DI SẢN

Đại sư Otake tên thật là Otake Risuke Minamoto-no-Takeyuki, thầy sinh năm 1926 tại Daiei, quận Katori, tỉnh Chiba. Năm 16 tuổi, thầy đế
n với môn kiếm thuật Katori Shinto ryu bằng việc theo học với thầy chưởng môn lúc bấy giờ là đại sư Hayashi Yazaemon. Cũng như bao thanh niên Nhật Bản trong giai đoạn chiến tranh, thầy đặt ra cho mình mục tiêu cao cả là rèn luyện tinh thần và thể chất để có thể tham gia phục vụ trong quân đội ở tiền tuyến. Tuy nhiên, thế chiến thứ hai kết thúc đúng vào lúc thầy được điều động ra chiến trường và từ đó thầy có cơ hội chuyên tu tập luyện Katori Shinto ryu trong hơn 60 năm nay.
Risuke Otake sensei - shihan của môn phái Katori
Risuke Otake sensei – shihan của môn phái kiếm thuật Katori
Năm 1960, Tenshin Shoden Katori Shinto ryu được trao tặng danh hiệu “Di sản văn hóa phi vật thể” bởi chính phủ Nhật Bản. Và thầy là một trong ba người nắm trọng trách giữ hồn di sản của môn kiếm thuật Nhật Bản Katori Shinto ryu. Thầy cũng là người duy nhất được ghi nhận chức danh cao nhất trong hệ phái là gokui kaiden từ chính đại sư Hayashi Yazaemon và truyền nhân Izasa Yasuada, hậu duệ của tổ sư Izasa Choisai.
Ở tuổi 38, thầy xây dựng võ đường Shinbukan Dojo và bắt đầu công cuộc truyền tải những kiến thức về kỹ thuật và triết lý trong môn kiếm thuật đã tồn tại hơn 600 năm Katori Shinto ryu cho hàng trăm môn sinh. Thầy là người chấp bút viết bộ ba quyển sách The Deity and the Sword: Katori Shinto ryu xuất bản năm 1977. Thầy cũng là người đứng ra tổ chức Festival kỷ niệm 600 năm ngày sinh của tổ sư Izasa Choisai năm 1987. Thêm vào đó, rất nhiều các buổi biểu diễn cũng như tập luyện với các môn sinh đã được chính thầy thực hiện trên khắp thế giới. Thầy cũng xuất hiện trong nhiều phim tài liệu, các tạp chí võ thuật và đạo diễn võ thuật trong nhiều bộ phim về kiếm thuật Nhật Bản. Những cống hiến của thầy trong việc gìn giữ và lưu truyền Katori Shinto ryu được ghi nhận bởi rất nhiều tổ chức như Bộ giáo dục Nhật Bản và huân chương Order of the Rising Sun từ hoàng gia Nhật.
Hiện nay, thầy cùng các con trai của mình là Nobutoshi Otake và Kyoso Shigetoshi vẫn tiếp tục dạy cho các môn sinh tại võ đường Shinbukan Dojo, Nhật Bản. Đồng thời, thầy chỉ định cho các đại diện quốc gia (shidosha) như là người dạy môn kiếm thuật Nhật Bản này một cách chính thức và cao nhất tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Năm 2012, thầy chỉ định cho thầy Malte Stokhof là shidosha chính thức tại Việt Nam để truyền bá Katori Shinto ryu tại quốc gia Đông Nam Á đầu tiên trong lịch sử.
(Nguồn: Katori Shinto-ryu – Warrior Tradition)

Bài học về sự tập trung và sức mạnh ý chí

kiếm thuật Nhật Bản Kendo
Sau khi giành ngôi đầu trong nhiều cuộc thi xạ tiễn, nhà vô địch trẻ tuổi và phần nào đó thích khoe khoang, đã thách thức một lão võ sư ở trong vùng – một người đã nổi tiếng vì kĩ năng bắn cung của
 mình. Chàng trai trẻ đã biểu diễn tài nghệ xạ tiễn chính xác tuyệt vời của mình bằng cách bắn trúng vào mắt của một con bò ở khoảng cách rất xa ngay trong lần bắn đầu tiên. Và bằng lần bắn thứ hai, anh đã chẻ đổi mũi tên đầu tiên.“Đó!” anh ta nói với lão võ sĩ già “liệu lão có làm được như vậy không?” Không chút buồn phiền, ông lão không hề giương cung nhưng lại ra dấu cho chàng xạ thủ trẻ tuổi đi theo mình lên đỉnh núi. Tò mò vì mục đích của lão võ sư, nhà vô địch theo ông lão lên tận núi cao cho đến khi họ đến một rãnh núi sâu hun hút được bắt qua bởi một cây cầu dây nhỏ. Cây cầu cứ lắc lư, run lên từng hồi mỗi khi gió thổi qua khiến cho người đi qua cứ như có thể ngã xuống vực sâu bất cứ lúc nào. Bình tĩnh bước lên giữa cây cầu không vững chắc và nguy hiểm đó, vị võ sư già chọn một cái cây cao ở khá gần làm đích, giương cung và bắn một mũi tên bay căng như kẻ chỉ vào thân cây.
“Bây giờ tới lượt của cậu” – lão võ sư nói và từ tốn bước trở về mặt đất.
Sợ hãi vì vực thẳm dường như không đáy và cây cầu lắc lư như tử thần vẫy gọi, chàng trai trẻ đã không tài nào ép được bản thân mình bước lên cây cầu và bắn vào mục tiêu.
“Ngươi có rất nhiều kĩ thuật với cây cung của mình” – lão võ sư nói – “nhưng ngươi lại có rất ít kĩ năng với ý chí của mình để bắn mũi tên đi”
- Tùng Possible

HUYỀN THOẠI VỀ 47 RONIN

*** Những người Samurai huyền thoại này hoàn toàn có thể bỏ đi, sống và chiến đấu vì cuộc đời của riêng mình….nhưng họ đã chọn DANH DỰ…***
Năm 1701, niên hiệu Nguyên Lộc đời Thiên hoàng Đông Sơn. Chinh di Đại Tướng quân Tokugawa Tsunayoshi trị vì đất nước từ Edo, trong khi Thiên hoàng, con rối chính trị, sống ở kinh đô Kyoto. Tỏ ý kính trọng tới Thiên hoàng, Tsunayoshi dâng tặng cống phẩm tới Kyoto trong lễ chúc mừng năm mới, và đổi lại, Thiên ho
àng cho khâm sai tới Edo. Để đón tiếp vị Khâm sai, Tsunayoshi cử đại danh trẻ là Naganori Asano – Takuminokami, chúa tỉnh Harima và thành Ako, cùng chúa tỉnh Sendai tiếp đãi sứ giả của Triều đình từ Kyoto. Hai vị đại danh trẻ thì thiếu kinh nghiệm trong các thể loại nghi lễ, cho nên Chinh di Đại Tướng quân giao trách nhiệm cho một vị quan chức lớn tuổi, Yoshinaka Kira – Kozukenosuke giúp đỡ họ. Kira là một kẻ kiêu ngạo và tham vọng. Vì Asano không “hối lộ” cho ông ta phải phép nên Kira tìm mọi cách để lăng mạ, sỉ nhục Asano. Ngày 14 tháng 3, cảm thấy không thể nào chịu sỉ nhục từ Kira được nữa, chúa Asano đã rút gươm chém Kira, nhưng chỉ làm Kira bị thương nhẹ. Bởi hành động ngu ngốc đó ngay trong thành Edo, Chinh di Đại Tướng quân Tsunayoshi lệnh cho chúa Asano phải thực hiện seppuku (tự mổ bụng) ngay lập tức. Mặt khác Kira lại không phải chịu sự trừng phạt nào, ông ta được “thông cảm” và cho phép tiếp tục công việc của mình.
Theo luật, khi lãnh chúa bị buộc phải seppuku, thành trì của ông ta sẽ thuộc về Tướng quân, gia tộc bị truất quyền thừa kế và 321 võ sĩ dưới quyền còn lại sẽ bị buộc phải trở thành lãng nhân (Ronin). Viên trưởng quan của Asano, Oishi Kuranosuke quyết định một kế hoạch thỉnh cầu lấy lại danh dự cho dòng họ của Asano nhưng bị Tướng quân Tsunayoshi từ chối.

Vài ngày sau, trong khi quân lính của chính quyền Mạc phủ đang trên đường tới Ako, nghĩa là sự thỉnh cầu đã thất bại, phần lớn võ sĩ dưới quyền Asano quyết định đào tẩu, chỉ còn 60 người võ sĩ trung thành nhất vẫn ở lại. Trước khi quân của triều đình tới được Ako, em trai của Asano gửi thư cho Oishi Kuranosuke, ra lệnh tôn trọng Tướng quân và đầu hàng vô điều kiện Oishi Kuranosuke và 59 người võ sĩ còn lại tuân lệnh Daigaku, nhưng trước khi rời bỏ thành trì Ako, họ lên một kế hoạch trả thù Kira, kẻ thậm chí không có tinh thần của một người võ sĩ nhưng đã đẩy cả dòng họ Asano đến đường cùng. Chỉ có cái chết của Kira mới rửa sạch nhục nhã cho Asano.
Họ chia thành những nhóm nhỏ để che dấu ý định trả thù. Kira chắc chắn đã tiên liệu điều này. Oishi Kuranosuke đến Yamashina, ngoại ô Kyoto, chơi bạc, uống rượu, trở thành một kẻ nghiện ngập nổi tiếng. Mưu mẹo này đánh lừa được các shinobi của Tướng quân và Kira.
Gần hai năm trôi qua. Người nhà Asano chờ đợi, giả dạng thành thương nhân, người bán đồ lặt vặt hoặc thậm chí thành kẻ nghiện ngập để thu thập thông tin về Kira. Họ chờ đợi một cơ hội tấn công vào dinh thự của Kira.
Cuối cùng cũng đến lúc Kira và các đồng minh lơi lỏng sự đề phòng đối với Oishi Kuranosuke và các lãng nhân.
Oishi Kuranosuke và 59 lãng nhân còn lại nhận thấy đây là cơ hội bằng vàng để tấn công Kira. Họ tiến hành một buổi họp kín, Oishi Kuranosuke chỉ cho phép 46 lãng nhân tham dự trận đánh này. 13 người còn lại được lệnh trở về với gia đình.
Từng bước một họ xâm nhập vào Edo. Trong một đêm nhiều tuyết, ngày 14 tháng 12 năm 1702, bốn mươi bẩy lãng nhân tấn công dinh thự của Kira khi ông ta đang mở một buổi tiệc trà. 47 lãng nhân chia thành hai nhóm, đột nhập dinh thự từ cửa chính và cửa phụ.
Trận đánh giữa 47 lãng nhân và 61 vệ sĩ của Kira diễn ra trong một giờ rưỡi. Tất cả các vệ sĩ của Kira đầu hàng hoặc bị giết trong khi phía Oishi Kuranosuke không có thiệt hại nào. Kira được tìm thấy đang trốn trong một nhà phụ ở ngoài. Các lãng nhân mang Kira vào sân và cho phép Kira được có một cơ hội bảo toàn danh dự như chúa Asano, bằng cách thực hiện seppuku. Kira không thể làm seppuku, và bị các lãng nhân chặt đầu. Sau đó 47 lãng nhân trở về mộ của Asano ở chùa Tuyền Nhạc Tự, tế vong hồn của Asano bằng đầu của Kira.
Đã sẵn sàng chết sau khi trả thù, Oishi Kuranosuke gửi người đại diện đến quan toà Edo, thông báo mọi chi tiết vụ việc và nói sẽ chờ lệnh từ chính quyền Mạc phủ tại chùa Tuyền Nhạc Tự.
Ngày 4 tháng 2 năm 1703, 46 lãng nhân chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm được một đại danh làm người giám sát và chứng kiến trong lễ seppuku. 46 lãng nhân thực hiện seppuku cùng một lúc, chết một cách xứng đáng trong danh dự. Sau đó họ được chôn cạnh chúa Asano ở chùa Tuyền Nhạc Tự. Nhóm do Oishi chỉ huy gồm 48 người nhưng trong ngày tập kích chỉ còn 47 , 1 nguời vắng mặt têm Sempei lí do vắng mặt là lúc Sempei xin phép cha lên đường đến Edo thì cha anh ta ngăn cấm, bảo rằng:
“Mày không được lấy cớ đi tìm công ăn việc làm để tham gia việc trả thù cho chủ soái. Việc này chẳng lợi lộc gì mà làm hại gia đình. Tốt hơn hết là mày lấy vợ ở nhà làm ăn cho thảnh thơi.”
Đành phải vâng lời cha nhưng Sempei rất buồn. Chờ đúng ngày giỗ chủ soái Asano,anh ta rạch bụng tự tử. Trong số 47 võ sĩ còn có con trai của Oishi là Matsu No Jou vừa mới cưới vợ hôm qua, hôm nay cũng lên đường theo cha chiến đấu. Nhưng ở nghĩa địa này, cạnh mộ Asano và 47 ngôi mộ nhỏ, về sau còn có thêm ngôi mộ thứ 48. Đó là mộ của võ sĩ phiên Satsuma, người đã hiểu lầm và có lần sỉ nhục Oishi một cách oan uổng (lúc Oishi giả làm một kẻ say xỉn không quan tâm đến cái chết của chủ nhân). Ân hận với cử chỉ của mình, võ sĩ này đến ngồi bên mộ Oishi tự rạch bụng mình.
Và câu chuyện 47 lãng nhân đã trở thành câu chuyện lịch sử anh hùng trong nhân dân Nhật Bản. Nội dung câu chuyện được lấy làm đề tài cho nhiều vở bi kịch và tiểu thuyết. Nghĩa địa đền Sengakuji ngày nay vẫn còn được nhân dân đến thăm viếng với những di tích: giếng rửa đầu Kira, mộ Asano và 48 tấm bia đá.
Tùng Possible
(Internet)

KATORI SHINTO RYU: 600 NĂM LỪNG LẪY TRÊN ĐẤT PHÙ TANG VÀ NHỮNG BƯỚC ĐẦU TẠI VIỆT NAM

Vị Sáng Tổ: Một kiếm sư 101 tuổi – IZASA CHOISAI IENAO (1387 – 1488)
 Từ tấm bé, Ienao đã được học kiếm, thương và kích. Khả năng thiên phú của ông đã sớm phát lộ và tên tuổi của ông mỗi ngày một vang xa. Chẳng bao lâu, nhờ tài năng kiệt xuất và qua những chiến thắng vang dội, ông đã trở thành một vị Lãnh chúa tại vùng Shimusa (hiện nay làChiba). Ở tuổi 60, ông từ bỏ tước vị, trả tự do cho các nông nô và từ giã gia đình đến ở tại một khu rừng thâm u trên ngọn Umeki.
kiếm thuật Nhật Bản Katori Shinto Ryu Kendo Việt Nam
Di ảnh của Tổ sư
 Tại đây, cuộc sống chiêm nghiệm giữa hoang địa đưa ông đến việc đào sâu kiếm pháp với giá trị tâm linh của nó và khổ luyện với các cao thủ của hai đại diện Thần đạo là Katori và Kashima.
 Một tai nạn xảy đến với một trong các đệ tử của ông trong đền Katori, đã đưa ông tới quyết định đi tìm mục đích tối hậu của con đường kiếm thuật và ông quyết định khiết hành trong suốt 1.000 ngày. Kết quả của giai đoạn trầm tư và khổ luyện, như ông kể lại, là việc hiển thị của vị thần đền Katori dưới dạng một đứa trẻ. Vị thần của Katori Jingu tặng ông một bản binh pháp.
  Từ đó, vào tuổi thất tuần, Ienao chính thức thành lập trường phái Katori Shinto ryu. Nhiều nhóm kiếm sĩ ở quanh vùng dần dà tập trung quanh Ienao. Ông đã biến một pháp môn chủ yếu luyện tập cơ thể để chiến đấu, thành một pháp môn có chiều kích tinh thần, từ những chiêu thức để tự vệ biến thành một lộ trình để tự viên thành. Và Đạo trường đầu tiên mà ông khai trương được dựng lên gần đền Shinfuku Ji trên núi Shintoku.
 Một di sản quốc gia
 Cũng như đối với Tổ sư Ueshiba của môn phái Aikido, vị Sáng lập trường phái Katori Shinto ryu: “Võ thuật là để kiến tạo hòa bình, và tất cả những ai tự cho mình là đấng nam nhi đều phải học võ nghệ để kiến tạo hòa bình. Các môn sinh của Katori Shinto ryu luôn luôn khổ luyện với tư tưởng là chiến thắng bản thân là trăm lần khó khăn hơn chiến thắng cả trăm ngàn đối thủ”. Dần dà, uy danh đạo cao đức trọng của Ienao đã khiến cho các cao thủ lừng danh nhất thời đó đến xin thọ giáo với ông, trong số đó có vị Sáng lập lưu phái Shinkage ryu, Chưởng giáo của gia tộc Yagyu Nobutsuna và của trường phái Kashima, một trường phái mà Tổ sư Ueshiba rất coi trọng (Một số cao thủ của Kashima ryu đã được Tổ sư mời đến dạy cho đệ tử của Người tại Kobukan).
kiếm thuật Nhật Bản Katori Shinto Ryu Kendo Việt Nam
Katori Jingu
 Các kỹ thuật và nguyên lý của Katori Shinto ryu trước đây không được phổ biến ra ngoài nước Nhật và đây là một di sản phi vật chất của quốc gia. Ngay cả võ sư mà cũng là nhà nghiên cứu võ học nổi tiếng người Mỹ là Donn F.Draeger, kẻ đã từng sống gần 20 năm tại Nhật và được trao 7 đẳng kiếm thuật, cũng không được phép giảng dạy pháp môn này, mặc dù đã được nhận làm đệ tử sau nghi thức Keppan (huyết thệ). Đơn giản là vì đây là một di sản quốc gia, đã được tôn vinh là di sản quốc gia vào tháng 4/1960.
Katori Shinto ryu tại Việt Nam
Hiện nay tại Sài Gòn có một hành giả của lưu phái Katori Shinto ryu, anh là một người đam mê võ thuật được gia đình cho tập Judo từ năm lên 5 tuổi và sau đó là Quyền Anh và Muay Thái từ khoảng năm 8 tuổi. Từ năm 23 tuổi, anh theo đuổi môn Aikido tại quê nhà Hà Lan và cũng từ đó không ngừng luyện tập và nghiên cứu các môn phái võ Nhật, đặc biệt là kiếm thuật. Ở trình độ 3 đẳng Aikido, nhưng do cuộc sống nay đây mai đó khiến anh không thể thi lên đẳng.
Năm 2007, anh đến Nhật và xin thọ giáo với vị Sư trưởng của môn phái Katori Shinto ryu tại Narita. Anh lưu lại đây trong suốt 3 tháng. Sau nghi thức Keppan, anh được Sư trưởng Otake Risuke và thứ nam của ông là Shigetoshi tận tình chỉ dạy.
cropped-img_009611.jpg
Năm sau, anh lại trở lại Nhật Bản để tiếp tục thọ giáo với Shihan Kioshi của môn phái. Tuy trước đây ở Hà Lan, anh đã được một trong hai Shidosha của môn phái tại Hà Lan truyền thụ, nhưng, tại Tổng đàn Katori Shinto ryu, theo đúng truyền thống, anh chỉ được bắt đầu với phần Omote.
Thế nhưng hiện nay, vì muốn được tiếp tục luyện tập tại Việt Nam, anh đã xin phép Sư trưởng Otake Risuke và đã được chấp nhận chỉ dẫn cho một số hành giả để cùng nhau luyện tập.
Thầy của anh Malte, Yamada Sensei, vào tuổi thất tuần cũng ngỏ ý muốn giới thiệu Tenshin Shode Katori Shinto ryu cho võ lâm Việt Nam
(Nguồn Aiki-Viet)

TOMOE GOZEN – NỮ SAMURAI XINH ĐẸP

…”But now they were reduced to but five survivors, and among these Tomoe still held her place. Calling her to him, Kiso said, “As you are a woman, it were better that you now make your escape. I have made up my mind to die, either by the hand of the enemy or by mine own, and how would Yoshinaka be shamed if in his last fight he died with a woman?” Even at these strong words, however, Tomoe would not forsake him, but still feeling full of fight she replied, “Ah, for some strong and bold warrior to match with, that Kiso might see how fine a death I can die!” And she drew aside her horse and waited. Presently Onda no Hachiro Moroshige of Musashi, a strong and valiant samurai, came riding up with thirty followers, and Tomoe, immediately dashing into them, flung herself upon Onda and grappling with him, dragged him from his horse, pressed him calmly against the pommel of her saddle and cut off his head. Then stripping off her armour she fled away to the Eastern Provinces”…
Thời Heike Monogatari là thời đại mà nữ chiến binh nổi tiếng nhất và xinh đẹp nhất Nhật Bản xuất hiện – Tomoe Gozen, người đã tham gia vào cuộc chiến tranh Gempei.
Trong số các kẻ thù mà Minamoto Yoritomo phải tiêu diệt trên con đường trở thanh shogun của mình bao gồm cả người em họ của ngài – Minamoto Kiso Yoshinaka. Dù cả hai người có quan hệ huyết thống, nhưng những vinh quang của Yoshinaka khi đánh bại Taira vào năm 1183 đã khiến ông trở thành kẻ thù của Yoritomo. Vì vậy, Yoritomo đã phái em trai mình là Yoshitsune đến đối phó với Yoshinaka vào năm 1184. Yoshitsune đánh bại Yoshinaka trong trận chiến tại Uji và Awazu với sự trợ chiến đắc lực của một nữ chiến binh xinh đẹp, đó là Tomoe Gozen.
kiếm đạo kenjutsu kendo katori shinto ryu vietnam kiếm thuật
Chân dung của nữ samurai Tomoe Gozen
Tính cách của Tomoe Gozen được khắc họa rõ nét trên chiến trận của samurai. Sự độc đáo này khiến cô trở thành một huyền thoại trong suốt chiều dài lịch sử của nước Nhật. Nhưng cũng có những tương truyền bí ẩn về cô.
Đầu tiên là mối quan hệ của cô và Yoshinaka đã được đề cập tới không rõ ràng. Một phiên bản kể về thời Heike Monogatari nhắc đến cô như là một gia khách hay một người hầu. Trong bản dịch của Sadler mô tả cô là một phụ nữ đẹp từ những suy đoán có thể cô là cô giáo của Yoshinaka hay thậm chí là “người vợ chiến binh” của ông ấy.
Tuy nhiên, hoàn toàn không có sự mập mờ trong lời kể lại các chiến công của cô. Lới thuật lại quá trình chiến đấu của cô trong trận chiến Awazu trong Heike Monogatari ngắn gọn đến mức chúng ta có thể kể lại toàn bộ câu chuyện dễ dàng. Và thú vị hơn là chương nhắc tới cô, với tiêu đề “Cái chết của Kiso” lại bắt đầu bằng việc Yoshinaka đã mang theo bên mình từ Shinano không chỉ một “cô gái đẹp” mà những 2 người. Người còn lại là Yamabuki, nhưng cô ta đã ngã bệnh và ở lại kinh thành.
kiếm đạo kenjutsu kendo katori shinto ryu vietnam kiếm thuật
Tomoe Gozen đang vung đại đao Naginata trên lưng ngựa
Tomoe có mái tóc đen dài, làn da mịn màng và một gương mặt xinh xắn. Ngoài ra, cô còn là một kỵ sĩ gan dạ mà không có một con ngựa chứng nào hay một địa hình gồ ghề nào có thể làm cô chùn bước và kỹ năng kiếm thuật cùng cung thuật của cô cũng rất cao siêu. Nhiều lần cô xông pha chiến trân, tả xung hữu đột, đánh bại nhiều danh tướng dày dạn trận mạt, do đó trong trận chiến cuối cùng, khi tất cả những chiến binh khác đã bị giết hoặc bỏ chạy, Tomoe trên chiến mã của mình vẫn còn trụ lại trận địa cùng sáu người khác.
Sau khi miêu tả tài điều binh khiển tướng của Yoshinaka, câu chuyện quay trở lại với Tomoe Gozen:
“Bây giờ họ đã tổn thất nặng nề nhưng trong số những người sống sót, Tomoe vẫn giữ vững trận địa của mình. Kiso cảm phục trước sự dũng cảm của vị nữ tướng xinh đẹp, ông đã muốn tha mạng cho cô “Vì ngươi là phụ nữ, tốt hơn bây giờ ngươi hãy tìm đường trốn thoát. Ta đã sẵn sàng để chết bởi tay kẻ thù hay do chính tay ta, nhưng Kiso Yoshinaka sẽ nhục nhã đến thế nào nếu trong trận chiến cuối cùng, ta chết cùng một phụ nữ?”
Tuy nhiên, mặc cho những lời mạnh mẽ đó, Tomoe vẫn không từ bỏ, với một tinh thần chiến đấu ngoan cường, cô trả lời: “Ah,với những chiến binh dũng cảm chiến đấu cùng ta, ngài Kiso có lẽ sẽ thấy cái chết của ta vinh quang đến thế nào!”. Tomoe thu hút kẻ thù sang một phía và chờ đợi. Lúc đó, Onda no Hachiro Moroshige của Mushashi, một samurai dũng cảm và khỏe mạnh, cưỡi ngựa tiến về phía cô cùng 30 cận vệ. Không chút do dự, Tomoe lập tức lao thẳng vào đội hình kẻ thù, nhảy bổ lên người của Onda và vật lộn với hắn, kéo hắn xuống ngựa. Sau đó cô giữ chắc đầu Onda bên yên ngựa và cắt đầu hắn. Sau khi lấy được thủ cấp Onda, Tomoe cới bỏ áo giáp và cưỡi ngựa về các thị trấn phía đông.”
kiếm đạo kenjutsu kendo katori shinto ryu vietnam kiếm thuật
Tomoe đang cắt đầu tướng địch trong trận chiến Awazu 1184
Câu chuyện trên là tất cả những gì chúng ta được kể về người phụ nữ độc đáo này, người đã cưỡi ngựa đi mất và không bao giờ được nhắc đến nữa trong Heike Monogatari. Do đó chúng ta có thể kết luận về người nữ chiến binh duy nhất được miêu tả chi tiết trong các câu chuyện chiến tranh. Ngoài những đoạn nhỏ kể về Yamabuki, trong các nghiên cứu về gunkimono của Paul Varley chỉ có thể tìm một nguồn tham khảo khác về nữ samurai này. Đó là trong Gempei Seisuki, câu chuyện kể về cái chết của Kiso Yoshinaka, và Tomoe được kể rằng đã bị giết chết nhiều năm trước đó. Bên cạnh đó còn có các thất bản khác kể về Tomoe như một nữ chiến binh, xông pha chiến trường để trả thù cho người mình yêu, hoặc sau khi giết giặc cô đã đi tu…Dù cho sự thật phía sau câu chuyện của Tomoe là như thế nào, cô ta đã thật sự là một nữ chiến binh samurai huyền thoại. Trên các bản gỗ vẽ hình Tomoe trên lưng ngựa, vung đại đao naginata – một vũ khí truyền thống của phụ nữ. Sự đặc biệt của Tomoe Goze không phải chủ yếu ở các chiến công vẻ vang của cô, mà là nằm trong tình thế đặc biệt mà cô đã tìm thấy chính mình và trong một cơ hội đặc biệt để Tomoe thi triển các kỹ năng xuất chúng của mình.
- Tùng Possible
(Nguồn: The Samurai Swordman – Master of War của Stephen Turnbull)

Samurai – Những chiến binh huyền thoại

Samurai (侍)  were the military nobility of pre-industrial Japan. According to translator William Scott Wilson: “In Chinese, the character 侍 was originally a verb meaning to wait upon or accompany persons in the upper ranks of society, and this is also true of the original term in Japanese, saburau. In both countries the terms were nominalized to mean “those who serve in close attendance to the nobility,” the pronunciation in Japanese changing to saburai. According to Wilson, an early reference to the word “samurai” appears in the Kokin Wakashū (905–914), the first imperial anthology of poems, completed in the first part of the 10th century.
By the end of the 12th century, samurai became almost entirely synonymous with bushi (武 士), and the word was closely associated with the middle and upper echelons of the warrior class. The samurai followed a set of rules that came to be known as bushido. While they numbered less than 10% of Japan’s populationsamurai teachings can still be found today in both everyday life and in modern Japanese martial art.
Samurai được nhiều người biết đến như những kiếm sĩ huyền thoại của Nhật Bản trong các bộ phim võ thuật. Samurai đóng một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử Nhật Bản 1.500 năm qua. Nhiều người coi lịch sử của Nhật bản cũng chính là lịch sử của chiến binh samurai. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu giá trị tinh thần của các chiến binh samurai, vũ khí và trang bị cũng như lịch sử của họ như thế nào.
Vậy Samurai là gì?
Samurai đảm trách nhiều vai trò ở nhật bản. Tuy nhiên, họ được biết đến nhiều nhất trong vai trò của chiến binh. Nhưng những gì làm cho một samurai khác với các chiến binh khác trên thế giới?
kenjutsu Katori shinto ryu kendo
Katana
Có 4 yếu tố để làm nên một samurai
Samurai là một chiến binh được đào tạo và có kĩ năng chiến đấu tốt.
Samurai phục vụ daimyo (lãnh chúa) hay chủ tướng, với lòng trung thành tuyệt đối, thậm chí cho đến chết. Trong tiếng nhật samurai từ có nghĩa là, “những người phục vụ.”
Samurai là tầng lớp ưu tú, được coi là ở đẳng cấp cao hơn công dân thường và binh lính thông thường.
Cuộc sống của samurai tuân theo tinh thần Bushido (võ sĩ đạo), một hệ thống luân lý đề cao sự danh dự.
Khổ luyện vì cuộc sống và chiến tranh
Qúa trình đào tạo một chiến binh samurai phụ thuộc vào sự giàu có của gia đình anh ta. Trong gia đình có đẳng cấp thấp, người con trai học tập tại các ngôi trường trong làng, và họ được đào tạo để trở thành một samurai từ cha, anh trai, hoặc chú bác. Đào tạo võ thuật được coi là rất quan trọng, và thường bắt đầu khi đứa trẻ lên năm. Con trai của gia đình giàu có hơn thì được gửi đến học viện đặc biệt, để thu nhận kiến thức văn học, nghệ thuật, và kĩ năng chiến đấu.
Chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh samurai là một bậc thầy sử dụng thanh kiếm katana với các kỹ năng chết người. Tuy nhiên, samurai khi xuất hiện trong vài thế kỷ đầu tiên, còn được gọi là chiến binh cưỡi ngựa bắn cung. Bắn cung trong khi cưỡi ngựa là kĩ năng phức tạp, và làm chủ nó đòi hỏi nhiều năm luyện tập trên cả mục tiêu cố định cũng như mục tiêu di động. Trong một thời gian, chó được sử dụng như là mục tiêu chuyển động để luyện tập, cho đến khi các shogun bãi bỏ phương pháp luyện tập tàn bạo này.
Các samurai còn phải luyện tập kiếm thuật không ngừng nghỉ. Có một câu chuyện kể về một vị sư phụ đã tấn công các học trò với một thanh kiếm bằng gỗ vào những thời điểm ngẫu nhiên trong suốt cả ngày và đêm, cho đến khi các sinh viên học được cách không bao giờ đánh mất cảnh giác.
Ngoài kỹ năng chiến binh, samurai cũng được đào tạo trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như văn học và lịch sử. Trong thời Tokugawa, thời kì hòa bình, vì vậy các kiến thức học tập đặc biệt hữu ích. Tuy nhiên, một số sư phụ đào tạo samurai cảnh báo học trò của họ không nên tập trung quá nhiều vào văn chương và nghệ thuật, vì sợ tâm trí của họ sẽ trở nên yếu kém.
Áo giáp
Các Samurai nổi bật với áo giáp và mũ giáp đặc trưng. Trong thời kì đầu samurai sử dụng áo giáp dạng phẳng, nhưng sau là giáp tấm. Giáp tấm (lamellar) là loại giáp được làm bằng cách kết các miếng kim loại thành các đĩa nhỏ rồi phủ sơn mài lên để chống thấm nước. Cuối cùng những tấm nhỏ này được kết lại bằng dây da thuộc, tấm này hơi chồng lên tấm kia. Ban đầu có hai loại giáp dạng này:
• Yoroi: áo giáp trang bị cho các kị binh samurai, rất nặng với mũ sắt và bảo vệ vai.
• Do-Maru trang bị cho lính bộ binh nên có trọng lượng nhẹ hơn.
Về sau, khi giao chiến chủ yếu là giáp lá cà thì giáp do-maru được samurai sử dụng nhiều hơn. Các nhà sản xuất vũ khí đã cải tiến bộ giáp do-maru gồm có mũ giáp, bảo vệ vai và ống chân.
Mũ giáp hay Kabuto trong tiếng nhật, được làm bằng cách gắn các tấm kim loại với nhau. Kabuto được thiết kế rất cầu kì, các mối ghép được tán đinh theo hình rặng núi. Các samurai đẳng cấp cao còn gắn cả biểu tượng gia tộc và các vật trang trí cầu kì khác lên mũ giáp của họ. Một số kabuto còn bao gồm mặt nạ kim loại mang gương mặt ma quỷ, với râu ria làm từ lông bờm ngựa. Trong thời bình, kabuto phát triển rất phức tạp, và ngày nay được coi là tác phẩm nghệ thuật ở Nhật Bản.
Vũ khí
Thứ vũ khí nổi tiếng nhất của samurai là katana. Samurai luôn sử dụng tanaka cùng với một thanh kiếm ngắn hơn được gọi là wakizashi tạo thành bộ kiếm daisho.
Những thợ rèn tạo ra katana được coi là những thợ làm kiếm giỏi nhất trong lịch sử. Một trong những vấn đề lớn nhất trong việc làm ra một thanh kiếm chính là giữ cho kiếm phải thật sắc.Các thợ rèn Nhật Bản đã giải quyết được vấn đề này bằng cách đúc kiếm nhiều lớp bằng được cách pha trộn thép mềm với thép cứng để làm lưỡi kiếm, vẫn sắc bén mà lại ít bị mẻ. Thanh kiếm sắc đến nỗi có thể cắt đôi một người thành 2 nửa chỉ với một nhát kiếm.
kenjutsu Katori shinto ryu kendo
Bên cạnh Kiếm và cung nỏ, Samurai còn sử dụng vũ khí tên là naginata, một thanh mác dài gồm lưỡi dao dài 0.6 đến 1.2 mét gắn trên trục gỗ dài 1.2 đến 1.5 mét. Chính vì vậy mà naginata là vũ khí phòng ngự vô cùng hiệu qủa của người Nhật.
Vào thế khỉ 16, khi các thương nhân châu Âu đến Nhật Bản lần đầu tiên, người Nhật đã trả một khoản tiền lớn để mua súng, nhanh chóng nắm vững các kỹ thuật rèn cần thiết để sản xuất hàng loạt các loại vũ khí. Từ đó sung đã gây ra ảnh hưởng lớn đến chiến tranh trên đất nước Nhật Bản, các lãnh chúa có thể củng cố quân đội bằng cách trang bị cho binh lính chưa được đào tạo những khẩu súng giá rẻ. Một số Samurai phải trang bị giáp dày hơn kín hơn như okegawa-do, để chống lại đạn pháo.
Bushido: biểu tượng danh giá của samurai
Các Samurai không phải là các chiến binh đánh thuê mà là thuộc hạ của các lãnh chúa, tuân theo giá trị luân lý được gọi là tư tưởng võ sĩ đạo (Bushido).
Bushido gồm một số các quy tắc không chính thức mà các chiến binh samurai phải tuân theo. Tinh thần Bushido đã thay đổi rất nhiều trong suốt chiều dài lịch sử của Nhật bản và chỉ được viết ra cho đến tận thể kỉ 17 trong khi các samurai đã xuất hiện trước đó hàng thế kỉ.
Đức tính đầu tiên của một samurai là phải trung thành với lãnh chúa của mình. Ở Nhật bản thời phong kiến lãnh chúa nhận sự cúng nạp từ các chư hầu của mình, đổi lai họ nhận được bảo vệ kinh tế và quân sự từ các lãnh chúa. Nếu một lãnh chúa nhận được lòng trung thành tuyệt đối từ các chư hầu của mình, toàn bộ hệ thống phong kiến sẽ sụp đổ. Vì vậy, trung thành lại mang đến sự cực đoan. Các hiến binh chiến đấu tới chết để bảo vệ chủ nhân của mình, thậm chí là tự tử nếu họ cảm hổ thẹn với chủ nhân.
Samurai cũng có nhiệm vụ báo thù. Họ sẽ tìm người để báo thù nếu danh dự của chủ nhân bị tổn hại hoặc chủ nhân của họ bị sát hại. Câu chuyện “47 người ronin” là tiêu biểu cho lòng trung thành, sự hy sinh, chí kiên định và danh dự mà tất cả võ sĩ luôn thể hiện vào thời bấy giờ. Câu chuyện kể về một nhóm võ sĩ thời kỳ đầu thế kỷ 18 đã mất chủ tướng sau khi vị chủ tướng đó bị ép buộc phải thực hiện seppuku (mổ bụng tự sát) vì bị buộc tội đã tấn công lãnh chúa khác. Để trả thù, họ đã giết viên quan tòa đó sau 2 năm kiên trì xây dựng kế hoạch và chờ đợi thời cơ. Các võ sĩ sau đó bị bắt và buộc phải thực hiện Seppuku bởi vì họ đã giết người và tấn công bí mật, điều bị coi là vi phạm luật pháp.
Samurai và Thiền Tông
Các tôn giáo bản địa của Nhật Bản là Thần đạo, cho đến khi bị Phật giáo thay thế trong thế kỷ thứ 5 sau công nguyên. Các samurai tin theo một phái Phật Giáo gọi là Thiền tông. Thiền là tập trung tư tưởng vào một sự việc hoặc một ý tưởng duy nhất. Những người theo Thiền tông cho là họ có thể tìm ra chân lý và sự hiểu biết thông qua tĩnh tâm và chế ngự bản thân. Các samurai thì cho là Thiền sẽ giúp họ hành động dứt khoát, đặc biệt là trong chiến đấu, và phát triển thư thái nội tâm.
Seppuku (mổ bụng tự sát)
Danh dự là thứ quý giá nhất của một samurai. Họ sẽ tử sát nếu thất bại hoặc vi phạm tinh thần Bushido. Tự sát đã trở thành một nghi thức được gọi là seppuku trong tiếng nhật hay thô tục hơn là hara-kiri. Seppuku là cách một samurai khôi phục lại danh dự đối với chủ nhân và gia đình, và thực hiện nghĩa vụ trung thành khi samurai đó thất bại.
Seppuku được thực hiện như một nghi thức. Samurai khi được ban cho hình phạt Seppuku (Harakiri) được tắm rửa thật sạch sẽ, mặc một áo dài màu trắng. Dụng cụ thực hiện nghi thức được đặt trên một cái đĩa của ông gồm một thanh kiếm ngắn wakizashi hoặc một con dao tanto được bọc giấy. Samurai sau đó lấy con dao và cắt mở dạ dày của mình, từ trái sang phải. Một người samurai khác đứng sau sẽ thực hiện daki-kubi, đó là một nhát chém gần như đứt hẳn đầu của người Samurai (Vẫn còn 1 dải thịt mỏng gắn đầu với thân thể) sau khi người samurai đã tự mổ bụng.
Về sau, seppuku càng trở nên nghi thức hơn, trong một số trường hợp bằng cách sử dụng quạt giấy thay vì dao. Thông thường, Kaishaku-nin (samurai thứ hai), sẽ thực hiện nhát chém hoàn hảo theo đúng nghi thức sẽ được thực hiện ngay sau khi thanh dao vừa ngập vào ổ bụng của người Samurai. Trong thời hiện đại, nghi thức seppuku lại nổi lên ở Nhật Bản, như 1 cách để để khôi phục lại danh dự khi đối mặt với thất bại và được sử dụng như một phương tiện thể hiện phản đối.
Lịch sử của samurai
Cho đến nay các nhà sử học vẫn chưa xác định được ai là samurai đầu tiên. Một số đề xuất rằng samurai xuất phát là các chiến binh bình thường. Trong thế kỉ thứ 5, 6, 7 sau công nguyên, đã xảy ra liên tiếp các cuộc chiến tranh giành ngai vàng giữa ác hoàng tử và gia tộc khi Thiên Hoàng qua đời. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc giao tranh là chống lại người bản địa trên các hòn đảo của nhật bản mà đế chế Nhật Bản gọi là emishi.
kenjutsu Katori shinto ryu kendo
Hình ảnh một samurai trong bộ giáp truyền thống cùng các cận vệ
Một số vị hoàng đế Nhật Bản thấy rằng emishi là các chiến binh giỏi nên sau đó đã tuyển mộ họ để chiến đấu chống lại các gia tộc khác và các phe phái tôn giáo nổi loạn. Những chiến thuật quân sự và truyền thống của emishi đã được các binh lính Nhật bản kết hợp lại và sau đó được các samurai sử dụng.
Địa vị của samurai xuất phát từ sự gia tăng các gia tộc quyền lực sống xa thủ đô, nắm giữ lãnh địa rộng lớn và lưu truyền từ thế hệ này snag thế hệ khác trong hàng trăm năm. Những thành viên trong gia tộc của các vị tướng này sẽ mang địa vị quý tộc.
Những samurai đầu tiên là sự hòa quyện của truyền thống quân sự của những võ phu thất học với địa vị ưu tú và hình mẫu các chiến binh kyuba no michi. Theo một số ghi chép, từ “samurai” đầu tiên xuất hiện trong thế kỷ 12. Trong thời gian dài, các samurai là lực lượng quân sự chính để chống lại emishi và gia tộc khác.
Trong những năm 1100, hai gia tộc mạnh mẽ phục vụ Nhật Hoàng: gia tộc Taira và gia tộc Minamoto. Hai gia tộc đã trở thành đối thủ của nhau, và năm 1192, Minamoto Yoritomo dẫn đầu gia tộc của mình chiến thắng gia tộc Taira. Nhật Hoàng phong cho Minamoto Yoritomo chức Shogun - Chinh di đại tướng quân-người đứng đầu của quân đội. Tuy nhiên, Yoritomo lợi dụng vị thế này để thiết lập sự cai trị, và thiết lập một chế độ độc tài quân sự được gọi là bakufu hay Mạc phủ. Từ đây, thay vì làm trướng dưới quyền của các lãnh chúa đất, Samurai trở thành những người cai trị của Nhật Bản dưới triều đại shogun. Sau khi Yoritomo qua đời, vợ ông Masa-ko và dòng họ Hojo của bà nắm giữ việc tổ chức Mạc phủ, duy trì kiểm soát đối với Nhật Bản trong vòng hơn 100 năm.
Năm 1338, gia tộc Ashikaga giành được quyền lực từ dòng họ Hojo. Chế độ Shogun của Nhà Ashikaga không hùng mất hầu hết quyền kiểm soát đất nước, gây ra tư tưởng bè phái, giao chiến liên lục giữa các gia tộc. Trong thời gian này, các lãnh chúa (daimyo) đã xây dựng thành quách vững chắc để phòng thủ trước các cuộc tấn công.
Thời kỳ chiến tranh này gọi là nội chiến Sengoku, kéo dài cho đến khi Tokugawa Ieyaso nắm quyền kiểm soát Nhật Bản năm 1603. Tokugawa thi hành một chính sách nghiêm ngặt, cô lập và giữ quyền kiểm soát của các lãnh chúa (daimyo) bằng cách buộc gia đình của họ sống ở thủ đô, trong khi các lãnh chúa đang sống trên lãnh địa của họ. Tokugawa yêu cầu mỗi lãnh chúa qua lại thủ đô ít nhất một lần mỗi năm. Chính sách này đảm bảo sự kiểm soát các lãnh chúa bởi vì họ phải để vợ và con làm con tin ở Edo và chi phí các chuyến đi qua lại giữa hai nơi làm suy yếu quyền lực kinh tế của các lãnh chúa).
Tokugawa cũng ban hành lệnh cấm mang kiếm trừ samurai. Tất cả thanh kiếm không thuộc sở hữu của samurai bị tịch thu và nấu chảy để làm tượng. Điều này chứng tỏ samurai là một tầng lớp rất khác biệt, ở đẳng cấp cao hơn người dân bình thường.Trong suốt thời kì hòa bình Tokugawa cai trị, samurai hiếm khi tham gia chiến đấu. thời gian này các samurai đảm trách vai trò khác, hộ tống lãnh chúa của họ qua lại thủ đô, làm việc như các quan chức ở Mạc phủ, và thu thập cống nạp từ các lãnh chúa phong kiến.
Kết thúc thời đại samurai
Tokugawa và con cháu của ông đã cai trị Nhật Bản hòa bình trong hai thế kỷ rưỡi. Vai trò của các samurai đã giảm dần trong giai đoạn này, nhưng hai yếu tố dẫn đến kết thúc của samurai: sự đô thị hóa ở Nhật Bản, và kết thúc của chủ nghĩa cô lập bế quan tỏa cảng.
Khi mà càng nhiều người Nhật Bản di chuyển đến các thành phố, càng có ít nông dân sản xuất lúa để đáp ứng nhu cầu của số dân ngày càng tăng. Cuộc sống xa hoa trụy lạc của các Shogun và lãnh chúa làm yếu đi nền kinh tế Nhật bản. Nhiều người Nhật, bao gồm cả samurai lớp thấp hơn, ngày càng bất mãn với Mạc phủ vì kinh tế ngày càng kém đi.
Sau đó, vào năm 1853, một số con tàu Hoa Kì cập bến vịnh Edo. Trưởng đoàn đã trao một bức thông điệp từ Tổng thống Millard Fillmore đến Thiên hoàng (tồn tại như bù nhìn, mặc dù các shogun cai trị đất nước).Tổng thống Fillmore bày tỏ mong muốn mở rộng quan hệ thương mại với Nhật Bản, các thủy thủ Hoa Kỳ được người Nhật đối xử tốt, và muốn mở Nhật Bản như là một cổng tiếp tế cho các tàu của Hoa Kì. Perry giao bức thông điệp, nói với Nhật Bản, ông sẽ trở lại sau một vài tháng rồi rời đi.
Sau sự kiện đó xảy ra một sự chia rẽ lớn ở Nhật Bản. Một số muốn từ chối lời đề nghị của Mỹ, duy trì chủ nghĩa biệt lập, duy trì truyền thống họ. Những người khác, tuy nhiên, nhận ra rằng Nhật Bản không bao giờ có thể vươn tới các công nghệ của người phương Tây. Họ đề nghị mở cửa Nhật Bản để tìm hiểu mọi thứ từ nước Mỹ, kết thúc chủ nghĩa biệt lập và trở thành một cường quốc thế giới. Cuối cùng, Mạc phủ đã quyết định mở của Nhật Bản bất chấp việc Nhật Hoàng từ chối không đồng ý với hiệp ước. Một vài nhóm samurai nổi loạn, muốn một Nhật Bản truyền thống, hỗ trợ Nhật Hoàng và bắt đầu một cuộc nội chiến chống lại Mạc phủ. Không ngờ họ đã thành công, lật đổ các shogun, kết thúc thời kỳ Tokugawa và khôi phục lại quyền lực của NHật hoàng. Hạ tầng lớp samurai mất vị trí lãnh đạo, kiểm soát chính phủ từ phía sau vị hoàng đế mới, một cậu bé người được gọi là Thiên Hoàng Minh Trị. Sự kiện này được gọi là Duy Tân Minh Trị.
Sức mạnh của các lãnh chúa đã bị lấy đi khi chính phủ tịch thu đất đai của họ. Không còn ai trả lương cho các samurai, chính phủ đã quyết định trả tiền cho họ với trái phiếu dựa theo đẳng cấp. điều này ảnh hưởng đến cả samurai đẳng cấp cao và thấp tuy có khác nhau nhưng đều theo cùng một hướng – mỗi tầng lớp hoặc sử dụng trái phiếu để đầu tư vào đất hoặc kinh doanh, hoặc nhận ra họ không có đủ thu nhập để tự nuôi mình, đã quay trở lại làm nông dân hoặc công nhân ở các thành phố. Từ đó, các samurai không còn có vị thế nào nữa ở Nhật Bản.
Cuối cùng, vào năm 1876, Thiên Hoàng cấm samurai mang kiếm, dẫn đến việc kết thúc thời kì samurai. Mặc dù có một số cuộc nổi loạn của các samurai ở một số tỉnh, nhưng các samurai cuối cùng cũng đảm nhiệm vai trò mới trong xã hội Nhật Bản, khi mà Nhật bản chuyển sang thời đại công nghiệp.
Mặc dù các samurai không còn tồn tại, nhưng tinh thần của họ về danh dự và kỷ luật vẫn phổ biến trong xã hội Nhật hiện đại. Từ các phi công cảm tử của Nhật Bản trong Thế chiến II, võ sĩ và thậm chí cả doanh nhân hiện đại luôn coi Bushido như một kim chỉ nam trong cuộc sống, hình ảnh samurai tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước Nhật ngày nay.
(Nguồn: Internet)

LEGEND OF BOKUDEN – FROM KENJUTSU TO KENDO

Bài viết tiếng Việt: http://www.facebook.com/photo.php?fbid=367553153340666&set=a.283780388384610.60579.276461372449845&type=1&relevant_count=1
Bokuden studied kenjutsu with his father, a Shinto priest at Kashima Shrine, with his father-in-law, and with many of the famous kenshi who resided in the area of Katori and Kashima shrines. Bokuden`s skill grew to prodigious heights, and as a kenshi he is alleged to have been undefeated in thirty-nine combats. But Bokuden has overtaken by the spirit of self-reflection and developed over the years what he referred to as the “mutekatsu ryu”,  a kind of swordmanship in which no hands are needed. The following well-known anecdote reveals the nature of this development.
One day as Bokuden was crossing the Lake Biwa in a small boat crowded with passengers, a swordsman was boasting of his unmatchable skill with the sword. His loud manner caught the attention of all the passengers and the oarsman. Only Bokuden, apparently asleep, was ignoring him. The braggart, disturbed that anyone should fail to learn his skill, shook Bokuden rudely from sleep and defiantly asked what ryu of swordsmanship Bokuden followed. Bokuden replied: “The mutekatsu ryu”
bokuden kendo kenjutsu katori shinto ryu
“What`s that?” asked the swordsman. Thereupon Bokuden explained that this style of swordsmanship was the highest form of skill possible with the sword, for it relied on the use of no hands. Bokuden`s answer made the swordsman angry. He shouted “You mean that you can defeat me without using your hands?” Bokuden replied quietly in the affirmative.
“But why then you carry two swords?” asked the braggart swordsman, growing still angrier.
“I use my swords only to vanquish my own selfish desires,” answered Bokuden. The swordsman, now fully enraged, ordered the oarsman to head for the nearest land, where he might engage Bokuden to settle the issue. But Bokuden voiced concern for the lives of innocent people who might happen to wander into the combat and suggested, instead, that they go to a small island nearby. The swordsman agreed. As the small boat was beached on the island the impatient swordsman leaped ashore, threw off his cloak, and stood ready for combat. Bokuden rose slowly from his seat, removed his jacket, and to all eyes appeared about to follow his challenger ashore. To the great supprise of all, especially the boastful swordsman on the beach, Bokuden then quickly picked up an oar and shoved the boat out into the lake. As the stranded swordsman bellowed with rage, Bokuden called out to him in a calm but clear voice: “This is how the mutekatsu ryu defeats the enemy”
Bokuden`s “mutekatsu ryu” is based on a principle that has a much deeper meaning than is indicated by the humorous incident alleged to have happened on Lake Biwa. It is a principle based on original thought that is traditionally credited to Bokuden, though it is possible that he was conditioned by the thinking of other kenshi at the Kashima and Katori shrines, in particular those of the Katori Shinto-ryu and Kashima Shinto-ryu.
(From Classic Budo – Volume two – Donn F. Draeger)